Hoạt động cho vay và bùng nợ qua app online dưới góc nhìn của chuyên gia pháp lý

Hoạt động cho vay trên không gian mạng ngày càng phát triển và đang thiếu hành lang pháp lý, dẫn đến những mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột ngày càng nhiều. 

Chủ nợ, con nợ đều có nguy cơ vi phạm pháp luật

Thời gian qua, bên cạnh các tổ chức tài chính được pháp luật bảo hộ thì không gian mạng xuất hiện rất nhiều app (ứng dụng) cho vay tiền online với lãi suất rất cao. Sự bùng nổ về app cho vay cũng góp phần hình thành một bộ phận khách hàng chuyên bùng nợ qua app số tiền từ vài trăm nghìn lên đến hàng trăm triệu đồng.

Cần tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn tại trụ sở tòa án

TS. Luật sư Đặng Văn Cường - Văn phòng Luật sư Chính Pháp (Đoàn Luật sư TP.Hà Nội)

Trao đổi với phóng viên, TS. Luật sư Đặng Văn Cường - Văn phòng Luật sư Chính Pháp (Đoàn Luật sư TP.Hà Nội) cho biết: Theo dõi trên mạng xã hội, hiện các chủ app online đang có rất nhiều cách đòi lại khoản nợ đã cho vay như khủng bố điện thoại, tin nhắn đối với con nợ, liên hệ với người thân, bạn bè, đồng nghiệp của con nợ, đe dọa in dán hình ảnh, phát tán thông tin vay nợ trên mạng xã hội…

Về vấn đề này, Luật sư Đặng Văn Cường khẳng định, vay mượn tài sản là quan hệ dân sự, pháp luật nghiêm cấm việc lợi dụng các quan hệ dân sự này để đe dọa, uy hiếp tinh thần của người khác nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc xâm phạm trái pháp luật đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản của người khác.

Hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần của người khác để đòi nợ là hành vi vi phạm pháp luật, tùy vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, tùy thuộc vào hậu quả xảy ra mà người vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo Luật sư Cường, về nguyên tắc thì trong trường hợp người vay tiền không trả tiền đúng hạn thì người cho vay có quyền liên hệ để yêu cầu trả tiền nhưng không được lợi dụng việc đòi tiền để xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người đi vay và những người khác có liên quan.

Trong trường hợp người vay tiền sau đó gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc có tài sản nên cố tình không trả thì có thể trình báo sự việc với cơ quan điều tra để được xem xét giải quyết về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Trong trường hợp không có hành vi chiếm đoạt tài sản thì bên cho vay tiền có thể khởi kiện đến tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nghiêm cấm hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần của người nợ tiền và những người thân của họ để đòi nợ trái pháp luật - chiếm đoạt tài sản.

Với hành vi chửi bới, xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác để đòi nợ thì có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP hoặc quy định tại Nghị định số 15/2020/NĐ-CP nếu như hành vi được diễn ra trên không gian mạng. Trường hợp hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác đến mức nghiêm trọng thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác theo điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015.

Trường hợp sử dụng hình ảnh, thông tin của bên cho vay để đưa ra thông tin sai sự thật nhằm vu khống, xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm của người vay tiền hoặc những người thân của họ thì hành vi này cũng có thể bị phạt hành chính hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu khống theo Điều 156, tội làm nhục người khác theo Điều 155 hoặc tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính mạng viễn thông theo điều 288 Bộ luật hình sự năm 2015.

Trường hợp đòi nợ bằng cách sử dụng vũ lực, đe dọa, uy hiếp tinh thần của người vay tài sản hoặc người thân của họ để đòi nợ thì đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự hoặc tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015.

“Bởi vậy, trong trường hợp người vay tiền bị đe dọa, uy hiếp tinh thần, bị vu khống, bị xúc phạm danh dự nhân phẩm thì có quyền lưu lại các tài liệu chứng cứ đó để trình báo sự việc với cơ quan điều tra, xem xét, xử lý các đối tượng đòi nợ trái pháp luật theo các quy định pháp luật nêu trên”, Luật sư Cường tư vấn.

Ở chiều ngược lại, theo quy định của pháp luật thì bên vay tài sản có nghĩa vụ trả lại tài sản cùng với lãi suất thỏa thuận theo đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức mà hai bên thỏa thuận. Trường hợp bên vay tài sản chậm trả nợ, vi phạm nghĩa vụ trả nợ bao gồm cả nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi thì phải chịu lãi suất nợ quá hạn. Nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật.

Trường hợp vay tiền sau đó gian dối hoặc bỏ trốn để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ với số tiền từ 4.000.000 đồng trở lên thì hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Trường hợp vay tiền sau đó sử dụng tiền vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ như mang tiền đi đánh bạc, buôn lậu hoặc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác thì hành vi này cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra Bộ luật Hình sự năm 2015 còn quy định hành vi vay tài sản, có khả năng trả nợ nhưng cố tình không trả thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu trường hợp đưa ra thông tin gian dối để vay tiền, sau đó chiếm đoạt, không có ý định trả tiền thì với số tiền chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên, người vay tiền sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bởi vậy, người vay tiền cần phải giữ liên lạc với người cho vay, nghiêm cấm việc sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp, nếu vay tiền sau đó bỏ trốn, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ hoặc gian dối để không trả nợ nữa thì có thể đối mặt với những chế tài hình sự. Người vay cần phải có trách nhiệm đối với khoản nợ của mình, trong trường hợp bị đòi nợ trái pháp luật thì có thể trình báo sự việc với các cơ quan chức năng để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

Cần làm gì để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình?

TS. Luật sư Cường nhận định rằng, cùng với sự phát triển của xã hội trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì các hoạt động của con người trên không gian mạng ngày càng nhiều trong đó có các quan hệ dân sự, kinh tế. Hoạt động cho vay trên không gian mạng cũng ngày càng phát triển và đang thiếu hành lang pháp lý, dẫn đến những mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột ngày càng nhiều.

Bởi vậy, Nhà nước cũng đang dần dần hoàn thiện Chính sách và pháp luật đối với các quan hệ dân sự, kinh tế trên không gian mạng. Khi hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện trên không gian mạng thì vẫn áp dụng theo các văn bản pháp luật hiện có như luật an ninh mạng, luật giao dịch điện tử, Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Đối với hoạt động vay tài sản qua mạng internet thì thường là vay tiêu dùng và đối tượng đi vay thường là người lao động, người trẻ, những người ít có hiểu biết về pháp luật và xã hội bởi vậy rất dễ vướng vào các nhóm đối tượng cho vay nặng lãi, đòi nợ trái pháp luật.

Từ thực trạng trên, Luật sư Cường khuyến cáo, khi vay tiền trên mạng internet qua các app không được nhà nước cho phép hoạt động thì người vay cần thận trọng trong việc cung cấp thông tin của bản thân. Hạn chế cung cấp mật khẩu iCloud, không cho phép bên cho vay truy cập vào danh bạ điện thoại, truy cập vào các thông tin cá nhân. Không cung cấp các thông tin của người thân và chi tiết thông tin nhân thân cho bên cho vay.

Cần lựa chọn các tổ chức, cá nhân cho vay có uy tín, được nhà nước cho phép hoạt động và tuân thủ pháp luật;

Cần thỏa thuận rõ các điều khoản về số tiền vay, mức lãi suất và các khoản lãi, chi phí khác phát sinh trong quá trình thực hiện thủ tục vay để tránh việc bị tính sai, bị chèn ép, lợi dụng việc cho vay tiền để chiếm đoạt tài sản;

Cần lưu lại các thông tin của bên cho vay, các chứng cứ nội dung về giao dịch, đặc biệt là cách tính lãi và các khoản chi phí phát sinh trong quá trình làm thủ tục và cho vay. Lưu ý các trường hợp có thể thực hiện hành vi lừa đảo thông qua hoạt động cho vay qua các app.

Khi phát hiện các nhóm đối tượng lợi dụng hoạt động cho vay để đe dọa, uy hiếp nhầm chiếm đoạt tài sản thì cần lưu lại chứng cứ và trình báo sự việc với cơ quan chức năng để được xem xét xử lý theo quy định pháp luật. Có thể trình báo sự việc với cơ quan điều tra, chính quyền địa phương hoặc các cơ quan quản lý an ninh, an toàn mạng.

PV - Người Đưa Tin